Quy định ăn uống và chế độ luyện tập dành cho người bệnh tim

  -  

Quy định ăn uống và chế độ luyện tập dành cho người bệnh tim


Bệnh nhân sở hữu bệnh lý về tim mạch cần bảo kê sức khỏe, tăng sức đề kháng bằng chế độ dinh dưỡng và tập dượt hợp lý, đặc biệt trong dịch COVID-19 này.

cội nguồn gây bệnh tim mạch

Do cholesterol

Cholesterol là chất được tạo thành từ thực phẩm dùng hàng ngày hay do cơ thể cung cấp. Khi lượng cholesterol trong máu lên quá cao chúng sẽ bám vào thành động mạch, nhắc cả động mạch vành, làm cho thành mạch hẹp lại, gây cản trở lưu thông máu và khiến giảm lưu lượng máu tới nuôi những cơ quan và công ty trong thân thể, dẫn tới thiếu máu cơ tim cũng như thiếu máu nuôi dưỡng những cơ quan công ty khác.

Để duy trì mức độ cholesterol ở mức trung bình, cần đặt ra 1 chế độ dinh dưỡng hợp lý, dùng thức ăn chứa ít chất béo bão hòa và cholesterol, nên dùng thức ăn với phổ biến chất xơ, duy trì cân nặng thân thể thường ngày và phối hợp tập thể dục. Định kỳ kiểm tra nồng độ cholesterol trong máu để có chế độ dinh dưỡng hợp lý.

Cao áp huyết

lúc bị bệnh cao huyết áp tim phải gắng công phổ biến hơn để đưa máu nuôi thân thể, đặc biệt sở hữu trường hợp lúc động mạch vành tắc nghẽn, không sản xuất đủ oxy và những chất dinh dưỡng.

cấp thiết duy trì áp huyết ở mức nhàng nhàng mang nếp sống lành mạnh, dinh dưỡng hợp lý, ăn ít muối, ko hút thuốc lá, chuyển động thân thể, giảm thiểu béo phì, nên rà soát huyết áp định kỳ.

tăng huyết áp là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh lý về tim mạch.

Bệnh tiểu tuyến phố

đường huyết cao làm cho những huyết mạch cứng, thoái hóa. Sở hữu đến 3/4 số người bị bệnh tiểu trục đường tử vong do bệnh tim mạch, phòng tránh bệnh tiểu đường bằng phương pháp duy trì sức nặng cơ thể nhàng nhàng mang chế độ dinh dưỡng cân bằng và chuyển di cơ thể.

Hút thuốc lá, rượu bia

Thuốc lá là một trong những duyên do khiến cho mắc những bệnh về tim.

Bia, rượu lúc tiêu dùng nên uống với lượng vừa, nếu như uống quá phổ quát bia, rượu sẽ dẫn tới cao áp huyết gây bệnh tim mạch, tai biến huyết quản não, suy tim do tăng lượng chất béo triglyceride, giảm chất béo thấp HDL và xơ vữa động mạch.

Béo phì, lười vận động, stress

Béo phì buộc cho tim phải khiến việc phổ quát hơn để nuôi khối thân thể lớn to, lâu ngày gây suy tim. Chỉ số sức nặng cơ thể BMI (Body Mass Index) càng cao khối lượng chất béo trong cơ thể càng phổ biến, khi đấy cần với chế độ dinh dưỡng hợp lý kết hợp đi lại cơ thể giúp BMI ở mức bình thường.

cơ thể ít di chuyển khiến cho nâng cao nguy cơ cao huyết áp, béo phì và tiểu con đường. Do đó cần đi lại tối thiểu 30 phút mỗi ngày.

hiện trạng găng tay kéo dài khiến cho tác động xấu tới sức khỏe, đặc thù với bệnh tim mạch. Khi cơ thể bị stress, tuyến thượng thận sẽ cung cấp đa dạng adrenalin để giúp thăng bằng cơ thể, nhưng giả dụ stress kéo dài sẽ làm cho cơ thể khó đáp ứng, lâu dần gây suy tim, vì thế cần giảm stress.

tuy nhiên có 1 số nguyên cớ gây bệnh tim mạch như: yếu tố di truyền, tuổi tác, nam nữ...

giải pháp đề phòng và giải quyết

Để phòng ngừa bệnh tim mạch cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý, nâng cao cường sử dụng rau, củ, quả, tránh xa thức ăn nhanh và kết hợp mang vận động.

- Ẳn uống đa dạng: Bao gồm thức ăn sở hữu nguồn cội từ động vật (thịt, cá, trứng, sữa) và thực vật (rau củ, hoa quả, gạo, mì, những loại đậu).

Tuân thủ liệu trình dinh dưỡng: Nên ăn định kỳ 3 bữa/ngày, ăn đúng giờ để tạo cho cơ thể hình thành phản xạ khiến cho sự tiêu hóa thức ăn diễn ra nhanh và thuận tiện.

- Ẳn vừa đủ no: Để hạn chế bị thừa cân và đề phòng bệnh tật, mỗi người nên ăn vừa đủ no, ko ăn phổ quát, ăn cố.

- giảm thiểu thức ăn với phổ biến chất béo: mọi người ko nên uống sữa khi chưa tách bơ, ăn sô cô la, uống ca cao và các cái cá béo (cá hồi, cá trích, cá thu, cá ngừ), không tiêu dùng mỡ động vật, làm thịt lợn, giết mổ cừu, thịt vịt, giết gà tây, thịt ngỗng.

Nên tiêu dùng các chiếc dầu có nhiều axít béo không no như dầu ngô, dầu hướng dương hoặc dầu ô liu khi chế biến thức ăn.

song song, có việc vận dụng chế độ ăn, người bệnh cần sử dụng những thuốc hạ lipides máu theo hướng dẫn của thầy thuốc. Tránh dùng các loại thịt, cá xuống còn 150-200 gam/ngày, sử dụng giết mổ thăn, giết thịt bắp không dính mỡ, cần dòng bỏ rất nhiều những phần mỡ nhìn thấy trước lúc chế biến và lượng mỡ được tạo ra trong công đoạn thổi nấu, không ăn nước xào, nước ninh xương ống, xương cục; ko ăn da, đầu, cổ, cánh, chân của những dòng gia cầm; tránh ăn phủ tạng động vật.

Nên tiêu dùng dầu thực vật để chế biến thức ăn, nhưng cũng phải giảm thiểu, không ăn quá 2-3 quả trứng trong 1 tuần và phải phương pháp ngày.

- hạn chế đồ ngọt, đồ mặn. nạp vào nhiều chất xơ, vitamin và chất khoáng.

- hạn chế uống rượu, bia.

y học đã chứng minh việc nghiện rượu, bia mang tác động rất xấu đối có sức khỏe đại quát và bệnh tim mạch đề cập riêng. Trường hợp uống ít trong giới hạn cho phép mỗi ngày ko tác động xấu đối có bệnh tim mạch.

mang hệ tim mạch, rượu gây tổn thương cơ tim, tăng kích thước tim, giảm khả năng đẩy máu của tim, đồng thời rượu làm cho giãn các huyết mạch ngoại vi, máu dồn ra ngoài da nhiều hơn

- Uống nước theo nhu cầu của thân thể.

Cần uống nước mang lượng vừa phải mà thân thể hài lòng được, nhất là có bệnh tim hay bệnh thận. Đối có một người khỏe mạnh, lúc uống rộng rãi nước, tim và thận phải tăng hoạt động để thải bớt nước ra ngoài để giữ sự cân bằng trong thân thể. Trái lại, ở người đã bị bệnh tim hay bệnh thận, hai cơ quan này không còn hoạt động thấp nên nước sẽ bị giữ lại trong cơ thể gây ra triệu chứng khó thở, phù, thậm chí còn gây ra hiện trạng "ngộ độc nước", miêu tả qua triệu chứng tơ mơ, hôn mê.Quả tim bao gồm hai phần có chức năng khác nhau: Tim phải nhận lượng máu đến từ các cơ quan của cơ thể và bơm chúng lên phổi. Tại đây dung lượng máu tĩnh mạch được làm giàu ôxy và trở thành lượng máu đỏ.

Tim trái nhận máu từ các tĩnh mạch phổi lượng máu đỏ và bơm chúng lên động mạch chủ để đưa đến các cơ quan qua hệ động mạch ngoại biên.

Mỗi phần có buồng nhận máu, được gọi là tâm nhĩ, và buồng bơm lượng máu, được gọi là tâm thất. Các tâm thất có thành cơ dầy (cơ tim) co bóp đều đặn (tần số khoảng 60-70 lần/phút khi nghỉ ngơi) để bơm máu đến các bộ phận khác nhau của cơ thể, làm cho dòng máu chảy trong các động mạch theo nhịp đập của tim.

Các tâm nhĩ được ngăn cách với các tâm thất bởi các van tim (van ba lá ở bên phải và van hai lá ở bên trái). Các van tim này chỉ cho dòng máu chảy theo một chiều: khi tâm thất bóp để tống lượng máu vào trong động mạch thì các van này đóng lại để ngăn cản dòng dung lượng máu phụt ngược lên tâm nhĩ.

Có các van tim tại các cửa ra của các tâm thất (van động mạch phổi tại cửa ra của tâm thất phải và van động mạch chủ tại cửa ra của tâm thất trái), các van này ngăn cản dòng dung lượng máu chảy ngược về tâm thất trong thời kỳ tâm trương.

Để cơ tim hoạt động được, cũng tương tự các cơ quan khác trong cơ thể, cơ tim cần phải được cung cấp đủ máu giàu ôxy.

dung lượng máu được cung cấp cho cơ tim qua hệ thống động mạch vành. Các nhánh động mạch vành xuất phát từ gốc động mạch chủ. Hệ động mạch vành gồm có động mạch vành trái và động mạch vành phải. Các động mạch này chia ra các nhánh nhỏ hơn tới nuôi từng vùng cơ tim.

Bệnh động mạch vành có nguy hiểm?

Để hoạt động được bình thường, cơ tim nên được cung cấp năng lượng và ôxy bởi các động mạch vành. Bệnh động mạch vành xuất hiện khi một hoặc nhiều nhánh động mạch này bị tắc nghẽn một phần hay hoàn toàn (thường là do các mảng xơ vữa).

Thông thường cơn đau thắt ngực có thể xảy ra khi động mạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch.

Khi hoạt động thể lực, cơ thể cần nhiều ôxy hơn nên cơ tim phải làm việc nhiều hơn như: tăng co bóp, tăng tần số tim, huyết áp tăng... Do đó nhu cầu ôxy của cơ tim cũng tăng lên. Nếu một nhánh động mạch vành bị hẹp, sự cung cấp dung lượng máu cho vùng cơ tim tương ứng trở cần phải không đầy đủ. Cơ tim bị thiếu máu và thiếu ôxy gây cơn đau thắt ngực.

Cơn đau thắt ngực này thường xảy ra khi người bệnh gắng sức và hạn chế đi khi bệnh nhân được nghỉ ngơi, cần người ta gọi là cơn đau thắt ngực ổn định. Nếu các mảng xơ vữa trong động mạch vành bị nứt, vỡ ra thì cơn đau thắt ngực có thể xuất hiện cả khi nghỉ ngơi cần phải người ta gọi là cơn đau thắt ngực không ổn định.

Bệnh động mạch vành không nhất thiết phải xảy ra một cách từ từ. Nếu mảng xơ vữa bị vỡ ra có thể gây tắc mạch đột ngột hay tạo thành cục huyết khối gây tắc mạch. Lúc này động mạch bị tắc hoàn toàn và gây ra nhồi lượng máu cơ tim.

Trong cả hai trường hợp, các tế bào cơ tim bị thiếu ôxy đột ngột, cạn kiệt nguồn dự trữ năng lượng và chết giống như các cây bị khô kiệt nước. Hậu quả của nhồi dung lượng máu cơ tim phụ thuộc vào độ rộng của vùng nhồi dung lượng máu. Vùng cơ tim bị chết càng rộng thì chức năng tim càng giảm thiểu nặng. Điều này một trong các nguyên nhân thường gặp nhất của suy tim.

Các phương pháp chữa bệnh bệnh động mạch vành chủ yếu

điều trị nội khoa: điều trị bằng thuốc, có thể sử dụng một hoặc nhiều loại thuốc kết hợp với nhau. Phương pháp này làm giảm thiểu được dấu hiệu nhưng không giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng động mạch vành.

thăm khám ngoại khoa: phẫu thuật làm cầu nối chủ - vành. Vùng cơ tim bị thiếu máu sẽ được cung cấp lượng máu bởi một mạch máu khác vòng qua chỗ động mạch vành bị hẹp hoặc tắc.

bệnh tim mạch can thiệp: can thiệp động mạch vành qua da là phương pháp không phải phẫu thuật nhưng vừa làm giảm thiểu triệu chứng, vừa giải quyết được nguyên nhân là hẹp lòng động mạch vành.


Những biểu hiện bạn dang bị bệnh tim: Tại đây

Cho dù bệnh nhân đã được chữa bệnh bằng phương pháp ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việc dùng liên tục các thuốc là hết sức nên thiết để duy trì chỉ số kết quả của các thủ thuật này.

bên cạnh đó, cần thay đổi lối sống như: Không hút thuốc lá; Luyện tập thể dục thường xuyên, đặc biệt là tập đi bộ; tránh căng thẳng quá mức; Ẳn nhạt, không ăn mỡ và các phủ tạng động vật, giảm bổ sung trứng, sữa, đồ ngọt; Không uống quá nhiều rượu, bia.

Và thăm khám một số bệnh có liên quan đến bệnh động mạch vành: chữa bệnh bệnh tiểu đường; Ẳn chế độ giảm thiểu cân chống béo phì; thăm khám rối loạn lipid máu; thăm khám bệnh tăng huyết áp.

Không chỉ gây nên các cơn đau thắt ngực dữ dội, bệnh mạch vành còn được coi là “kẻ giết người số một” trong các bệnh lý về bệnh tim. Hậu quả cuối cùng của nó chính là cơn nhồi máu cơ tim - nguyên nhân gây cần phải cái chết của khoảng 7,4 triệu người trên thế giới mỗi năm (theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2012).

Những người may mắn sống sót sau cơn nhồi dung lượng máu cơ tim, thường sức khỏe cũng sẽ bị suy giảm nghiêm trọng, đồng thời nguy cơ tái nhồi máu cơ tim và suy tim trong tương lai cũng rất cao. Chính như vậy, việc thăm khám tích cực và phòng ngừa nguy cơ nhồi dung lượng máu cơ tim ở bệnh nhân mạch vành là rất nên thiết.